Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2018

Tư thế giải phẫu


Tư thế giải phẫu

Tất cả các mô tả giải phẫu được trình bày trong mối liên quan với tư thế giải phẫu để đảm bảo rằng các mô tả được rõ ràng và chính xác. Một người ở tư thế giải phẫu là một người đứng thẳng với: đầu, mắt và các ngón chân hướng ra trước, các gót chân và các ngón chân áp sát nhau, và hai tay buông thõng ở hai bên với các gan bàn tay hướng ra trước.

I. Các mặt phẳng giải phẫu

Những mô tả giải phẫu được dựa trên bốn loại mặt phẳng cắt qua cơ thể ở tư thế giải phẫu. Có nhiều mặt phẳng đứng dọc, đứng ngang và nằm ngang nhưng chỉ có một mặt phẳng đứng dọc giữa. Tác dụng chính của các mặt phẳng giải phẫu là để mô tả các mặt cát và các hình ảnh của cơ thể.

Kết quả hình ảnh cho các mặt phẳng giải phẫu

Mặt phẳng đứng dọc giữa hay mặt phẳng giữa là mặt phẳng đứng đi dọc qua trung tâm của cơ thể, chia cơ thể thành các nửa phải và trái.

Các mặt phẳng đứng dọc là những mặt phẳng thẳng đứng đi qua cơ thể song song với mặt phẳng đứng dọc giữa. Sẽ rất có ích nếu chỉ rõ vị trí của mỗi mặt phẳng bằng cách đưa ra một điểm mốc, chẳng hạn như mặt phẳng đứng dọc qua điểm giữa xương đòn.

Các mặt phẳng đứng ngang là những mặt phẳng thẳng đứng đi qua cơ thể vuông góc với mặt phẳng đứng dọc giữa, chia cơ thể thành các phần trước và sau.

Các mặt phẳng nằm ngang là các mặt phẳng đi qua cơ thể vuông góc với các mặt phẳng đứng dọc giữa và đứng ngang. Một mặt phẳng nằm ngang chia cơ thể thành các phần trên và dưới. Cũng cần có một điểm tham chiếu chỉ rõ mức cắt của nó, chẳng hạn như một mặt phẳng nằm ngang đi qua rốn. Không nên nhầm với mặt phẳng cắt ngang, mặt phẳng cắt ngang chỉ mặt phẳng cắt qua trục của một chi thể, ví dụ như mặt phẳng cắt ngang qua trục của bàn chân lại nằm trên mặt phẳng đứng ngang.

II. Các từ chỉ mối quan hệ vị trí và so sánh

Có nhiều tính từ được sử dụng để mô tả mối liên hệ về vị trí của các phần cơ thể ở tư thế giải phẫu bằng cách so sánh vị trí tương đối của hai cấu trúc với nhau, một cấu trúc đơn lẻ với bề mặt hoặc đường giữa, hay một cấu trúc với các cực cơ thể. Dưới đây là những từ thường được sử dụng.

Trên là nằm gần hơn về phía đầu; ví dụ nói "tim nằm trên cơ hoành" nghĩa là nói tim nằm gần đầu hơn cơ hoành, nói cái gì đó đi về phía đầu tức là nói đi về phía trên. 

Dưới là nằm gần hơn về phía bàn chân; ví dụ nói "dạ dày nằm dưới tim" nghĩa là nói dạ dày nằm gần  bàn chân hơn so với tim. Lưu ý rằng mặt dưới bàn chân được gọi là gan chân. 

Trước hay bụng là ở gần hơn về phía mặt trước (mặt bụng) cơ thể hơn; ví dụ, nói "xương ức nằm trước tim" nghĩa là nói xương ức nằm gần mặt trước cơ thể hơn tim. Lưu ý rằng mặt trước của bàn tay được gọi là mặt gan tay hay gan tay. Trong mô tả giải phẫu não, từ mỏ (rostral) cũng có nghĩa là trước. 

Sau hay lưng là nằm gần hơn về phía mặt sau cơ thể; ví dụ nói "thận nằm sau tuỵ" nghĩa là thận nằm gần mặt sau cơ thể hơn tuỵ. Mặt sau bàn tay được gọi là mu bàn tay. 

Bên giữa. Bên là nằm xa mặt phẳng dọc giữa hơn, còn giữa thì ngược lại. Trong tiếng Việt các từ bên và giữa thường được dịch là trong và ngoài mặc dù dịch như thế đôi khi có thể nhầm với nông và sâu, bên trong và bên ngoài. Ví dụ nói "mũi nằm ở phía trong của mắt" nghĩa là nói mũi ở gần mặt phẳng đứng dọc giữa hơn mắt. Vì giữa (trong) và bên (ngoài) khi áp dụng vào các chi có thể dẫn tới hiểu lầm, người ta thường dùng tên các xương của cẳng tay và cẳng chân làm các từ chỉ vị trí. Ở chi  trên, xương quay là xương nằm ngoài, xương trụ nằm trong. Như vậy, các từ "phía trụ" và "phía trong", "phía quay" và "phía ngoài” đồng nghĩa với nhau. Ở chi dưới, các từ chày và mác lần lượt đồng nghĩa với trong và ngoài. Trong nha khoa, từ mesial tương đương với từ medial và có nghĩa là "gần hơn về phía đường giữa cung răng" 

Gần xa. Gần nghĩa là nằm gần thân hoặc là điểm nguyên ủy (điểm gốc) của một mạch máu, một thần kinh, một chi hoặc một cơ quan hơn; xa có nghĩa ngược lại. Ở các chi, gần nghĩa là gần gốc chi hơn, ví dụ nói "đùi nằm ở đầu gần của chi dưới". 

Nông là nằm gần bề mặt hơn và sâu là nằm xa bề mặt hơn, ví dụ xương cánh tay nằm sâu dưới các cơ và da. 

Bên trong là ở gần hơn về phía trung tâm của một cơ quan hay khoang rỗng, bên ngoài thì ngược lại; ví dụ động mạch cảnh ngoài đi bên ngoài hộp sọ, động mạch cảnh trong có đoạn đi trong hộp sọ. Như đã nói ở trên, đôi khi có thể hiểu nhầm nghĩa của cặp từ bên ngoài/bên trong với cặp từ giữa/bên (khi dịch giữa/bên thành trong/ngoài).

Related Posts:

  • Tư thế giải phẫu Tư thế giải phẫu Tất cả các mô tả giải phẫu được trình bày trong mối liên quan với tư thế giải phẫu để đảm bảo rằng các mô tả được rõ ràng và chính xác. Một người ở tư thế giải phẫu là một người đứng thẳng với: đầu, mắt và… Read More

3 nhận xét:

  1. Online Casino and Sports Betting - Kadangpintar
    Online casino and sports youtube to mp3 betting has arrived in Malaysia as a major online kadangpintar gaming venue in the world of 바카라 사이트 sports betting. There are so many

    Trả lờiXóa
  2. Live Casino Site: Play Roulette, Blackjack & More - Lucky
    Play Online Roulette, Blackjack & More at Lucky Club, one of the leading online roulette and blackjack casinos in the luckyclub.live world.

    Trả lờiXóa
  3. El Yucateco Hotel & Casino - Mapyro
    El Yucateco Resort & Casino 태백 출장안마 · The resort's 13000-square foot 의정부 출장샵 gaming 수원 출장안마 space offers 정읍 출장안마 a casino and 13 table games and a bar. · 24 hour front desk. · Live 인천광역 출장마사지

    Trả lờiXóa